Giá trị của đồng tiền

Mỗi lần nghĩ rằng mình muốn viết về chủ đề liên quan đến tài chính một chút, mình lại thấy hơi … sợ. Mình ngần ngại là vì mình hiểu vốn sống và kiến thức của mình có lẽ vẫn còn quá ít để sẻ chia, và có lẽ là những điều thật cơ bản này ai cũng biết hết rồi. Nhưng một lần nữa, mình quay lại câu nói dẫn lối mình mỗi khi nỗi sợ lấn át việc viết ra: “Ước gì Thảo của ngày xưa biết được những điều này sớm hơn”, và mình hiểu là mình nên viết ra những trải nghiệm của mình. Mình viết không để cho ai khác, mà là để cho chính mình. Vì vậy, trong bài blog này, hãy cùng mình đi qua những công việc đầu đời và những bài học về giá trị của đồng tiền sau mỗi trải nghiệm ấy.

Tuổi 18-19

Vài tháng sau khi kỳ thi đại học kết thúc, mình có công việc chính thức đầu tiên – làm trợ giảng tiếng anh cho một trung tâm nhỏ. Ngày ấy mình được một đứa bạn thân giới thiệu làm ở đó vì bạn đã làm rồi và thấy cũng ưng ý. Mình không nhớ quá rõ mức lương cố định theo giờ là bao nhiêu, chỉ nhớ là vào năm 2018, khả năng kiếm được hơn 1 triệu một tháng là khá cao cho một công việc tương tự như vậy ở nơi khác. Mình xin đi làm luôn vì tất cả những gì mình có ngày ấy chỉ là khả năng tiếng anh. Điều tuyệt vời nhất của công việc ấy chính là được đi làm với các bạn bè mình quen thân từ cấp 2,3 vì nhờ có chúng nó mà ngày nào đi làm cũng vui. Rồi cũng nhờ công việc này mà mình hiểu là mình không yêu thích công việc giảng dạy tiếng anh. Mình không vững tiếng anh đến mức đó và hơn hết là mình chưa có khả năng giải thích một vấn đề hay một khái niệm một cách dễ hiểu cho người khác. Khi cân nhắc bắt đầu công việc này, mình chỉ nghĩ là “À, ở đây trả lương khá cao so với mặt bằng chung, gần nhà, có bạn bè, cho mình thêm trải nghiệm”. Mình không tự đặt câu hỏi là tại sao lại có sự chênh lệch trong mức lương như thế mà lựa chọn đi làm ngay lập tức. Hết giờ học của một lớp là bọn mình thường xuyên mang vở của các em học sinh về nhà và chấm điểm. Hoá ra ngày đó, lí do bọn mình có mức lương như vậy (ngoài việc nhận thêm lớp) chính là bọn mình mang việc về nhà. Hoá ra, chả ở đâu có việc nhẹ lương cao cả.

Sau công việc đó, mình tập trung ôn thi IELTS và nhận về được một kết quả tốt đẹp ngoài sức mong đợi. Thời điểm ôn thi mình hay xem các chương trình về tiếng anh của VTV7 nên rất muốn được thử sức làm một cộng tác viên cho Đài. Cũng một phần nhờ kết quả IELTS đó, mình được thử sức trong hậu trường của một chương trình do VTV7 sản xuất. May mắn là vào ngày đầu tiên đi làm, chị phụ trách sản xuất của chương trình thấy mình nhiệt tình và cũng chú tâm hỗ trợ mọi người nên đồng ý cho mình được làm cộng tác viên của chị. Mình đến Đài chỉ vì mình rất thích được học hỏi để hiểu đằng sau một chương trình về giáo dục và tập trung vào tiếng Anh thì sẽ vận hành như thế nào. Mình học từ những điều đơn giản nhất như dùng máy in thì sao, chuẩn bị các vật dụng cho trường quay thì thế nào, cách liên lạc với các anh chị sao cho thật chuyên nghiệp, … cho đến những điều phức tạp hơn như khả năng quản lí thời gian, tổ chức công việc, cắt chỉnh video … Dù mình chỉ cộng tác tầm 3 tháng, mình vẫn cảm thấy đó là một trải nghiệm vô cùng quý giá. Vì mình đến với công việc này với tư duy “chỉ được ở đây thôi là đã may mắn lắm rồi” và biết đây là công việc không có lương, mình chỉ tập trung vào làm việc sao cho tốt nhất trong khả năng của mình. Thế rồi đến khoảng thời gian cuối cùng khi mình sắp nghỉ việc, chị phụ trách sản xuất có đưa một khoản tiền nho nhỏ cho mình cùng các bạn cộng tác viên khác vì bọn mình đã hỗ trợ chị suốt thời gian qua. Mình đã rất vui vì ngoài việc mình được trải nghiệm vô vàn điều mới như mình luôn muốn (và như vậy vốn là đã quá đủ rồi), mình còn được nhận thêm cả phần thưởng vật chất nữa.

Hai công việc này đi liền với nhau vì đây là khoảng thời gian mình ra ngoài lăn xả làm việc nhưng chưa hề có gánh nặng về tiền. Mình mới ra khỏi trường cấp ba và vẫn có mẹ lo cho từng cái ăn cái mặc. Lúc ấy, cảm giác tiền thù lao chỉ là khoản bonus/tiền thưởng mà mình có thì tuyệt, mà không có thì cũng không quá quan trọng vì điều mình muốn nhất là trải nghiệm thì mình đã có rồi. Dù ngay cả khi đã hiểu rằng phải có lao động thì mới làm ra tiền, đến cuối ngày thì mình vẫn chưa phải nghĩ đến cơm ăn áo mặc, chưa phải nghĩ quá nhiều về chi tiêu trong cuộc sống.

Tuổi 21

Bẵng đi một thời gian sau khi dịch COVID đã phần nào ổn định, do không biết cách chi tiêu hợp lí, mình rơi vào cảnh cần thêm tiền vì tiền học bổng và tiền tiết kiệm không còn đủ để mình chi trả cho những nhu cầu cơ bản hàng tháng nữa. Đây là lần đầu tiên trong đời mình cảm nhận và hiểu được sức nặng và giá trị của đồng tiền nó lớn đến mức nào. Như tháp nhu cầu của Maslow đã chỉ ra, khi mà những nhu cầu cơ bản nhất của con người để sinh tồn không được đáp ứng (chẳng hạn như thức ăn, chỗ ở, giấc ngủ), ta khó có thể tập trung vào các nhu cầu cao hơn (như là an toàn, xã hội, được tôn trọng, tự hoàn thiện bản thân). Ngày ấy, việc nghĩ rằng mình cần làm gì để kiếm thêm tiền đã chiếm lấy hết tâm trí mình, mình chằng thể nghĩ được gì xa hơn.

Thời điểm nền kinh tế chưa phục hồi sau COVID, những đứa học sinh năm nhất, năm hai với vốn kiến thức còn hạn chế như mình rất khó kiếm việc văn phòng vì nhiều công ty chưa tuyển thực tập sinh. Cộng với việc không nói tiếng bản địa – tiếng Hungary – và đang học về một ngành dịch vụ là du lịch, mình gần như hoàn toàn không có khả năng tìm được việc làm. Quá túng thiếu, mình quyết định nhắn tin trực tiếp cho một nhà hàng Việt Nam để xin đi làm bồi bàn dù họ không thông báo tuyển dụng. May mắn là chủ quán đồng ý cho mình thử việc. Lúc đó mình chỉ biết là mình cần tiền, lương thấp cũng được, làm công việc gì cũng được, miễn là có tiền. Mình không ngờ rằng công việc yêu cầu thể lực này (nhiều hơn so với việc ngồi văn phòng) lại mang đến cho mình nhiều bài học thay đổi cuộc sống đến vậy.

Khi chủ quán nhắn cho mình mức lương thử việc khá khiêm tốn, mình chấp nhận vì nghĩ rằng mình cũng không còn lựa chọn nào khác. Đằng nào mình cũng đang học về ngành du lịch, nhà hàng, khách sạn, đi làm nhân viên phục vụ cũng là một cách để có thêm kinh nghiệm thực tế về những gì mình học trên trường. Mình học rửa cốc chén sao cho thật sạch, lau sao cho không dính vân tay, cách rót bia để có được lớp bọt đẹp và mịn, cách lấy đơn đặt đồ ăn của khách, cách kiểm tra đồ trong kho để đồ uống luôn có sẵn ở khu vực bar, … Mình cũng học cách dọn dẹp nhà hàng, từ quét nhà, hút bụi, lau nhà, cho đến việc cọ nhà vệ sinh, đổ rác, lau mạng nhện. 

Nhưng có lẽ, những điều làm mình trăn trở suy nghĩ nhất lại không đến từ những giờ cao điểm là bữa trưa và bữa tối – khi mà khách rất đông và mình cần luôn tay luôn chân, chúng đến từ những lúc vắng khách. Nếu có rảnh ra được vài phút, mình sẽ luôn dừng lại và nghĩ: “Tại sao mình lại ở đây, thời gian vài tiếng này mình dành để học các kỹ năng phục vụ cho việc làm ở văn phòng thì có phải tốt hơn không? Với những kiến thức đấy mình có thể kiếm được một công việc tốt hơn”. Mình biết là mình không phù hợp với công việc bồi bàn nhưng mình lại cần tiền và khả năng có hạn, nên những câu hỏi xuất phát từ suy nghĩ mình đang tốn thời gian một cách vô ích này lại càng làm mình thấy nặng nề hơn. Không có tiền dự phòng để xoay xở cuộc sống hàng ngày đã “trói” mình vào một công việc mình không thích.

Vì mình được trả lương theo giờ, nên kể cả khi không có khách, chủ quán vẫn sẽ giao việc để mình làm. Mình đã tưới cây, viết bảng thực đơn quảng cáo cho nhà hàng, sắp xếp đồ đạc lên các tủ kệ, chép tay vài trang A4 danh sách hàng hoá, cọ các giá đựng đồ trong kho (rất là bẩn) bằng các chất hoá học tẩy rửa mạnh, và kể cả … gấp quần áo cho gia đình của chủ quán. Nhiều việc không liên quan đến làm bồi bàn, nhưng họ giao gì thì mình sẽ làm nấy thôi. Kể cả là mình có mang găng tay cho bản thân để tránh da tiếp xúc trực tiếp với các chất tẩy rửa, cơ địa da khô của mình vẫn tìm được cách để bong tróc chảy máu. Vài tháng ở đó là những ngày mình phải bôi kem nghệ khi về nhà để da mau lành, là lúc vắt nước chanh cho khách nhưng axit cứ len lỏi vào các vết thương hở. Được cái là chủ quán và các anh chị làm việc với mình cũng tốt, không mắng mỏ quát tháo khi mình mắc lỗi (không như một số quán ăn của người Việt khác mà mình có nghe qua). Việc được ăn đồ ăn Việt Nam mỗi ngày khi đi làm chính là điều tuyệt vời nhất 😛

Công việc này làm cách chi tiêu của mình thay đổi rất nhiều. Bỗng dưng những quyết định trả tiền cho một điều gì đó lại dựa vào một đơn vị mà mình chưa từng nghĩ tới: số giờ làm việc. Một bát phở trở thành “một tiếng rưỡi làm việc”, một lần đi uống cà phê trở thành “hai tiếng làm việc, và một chiếc áo cũng trở thành “bốn tiếng làm việc”.

Công việc này khiến mình hiểu ra là làm những công việc yêu cầu thể lực là chính sẽ vất vả hơn rất nhiều so với lao động trí óc. Mình sẽ luôn chọn một tiếng ngồi bàn giấy thay vì một tiếng dùng thể lực như vậy. Không có gì tệ về công việc này cả, nó chỉ không hợp với mình. Mình hiểu là mình cần nâng cao khả năng và kiến thức chuyên môn để có được công việc nhẹ nhàng về thể chất hơn. Mình nhận ra mình phải trở nên đủ giỏi để có những sự lựa chọn về việc đi làm ở đâu, như thế nào thay vì phải chấp nhận cái mức tối thiểu mà người khác đặt ra. Hơn hết, mình cần phải học cách quản lí tiền bạc và chi tiêu hợp lí vì mình không muốn bị rơi vào cảnh bị đồng tiền kiểm soát và chi phối cuộc sống như thế này nữa. Khi đọc những dòng này, có thể nhiều người sẽ thấy điều mình viết thật là hiển nhiên, nhưng với mình, chỉ có khi mình thực sự trải qua nó thì mình mới thấm được giá trị của đồng tiền và sức lao động. Dù gì thì, Thảo năm 21 tuổi đã nỗ lực hết sức rồi, bài blog này mình dành để gửi Thảo năm ấy như một cái ôm động viên thật chặt.

Tuổi 22

Vẫn là một thị trường lao động khó khăn như thế, nhưng rồi cũng thật may là mình tìm được công việc mình mong muốn cho kỳ thực tập ở trường – một công việc trong khách sạn. Ngày ấy mình đã rất vui vì tự chủ động tham gia các hội chợ việc làm online, nói chuyện với bên nhân sự của tất cả các khách sạn trong hai ngày hội chợ, và gây ấn tượng tốt được với một vài nơi. Vài ngày sau đó, mình được một khách sạn đặt lịch phỏng vấn. Cuộc phỏng vấn diễn ra lúc 10 giờ sáng và đến khoảng 2,3 giờ chiều cùng ngày thôi mình đã nhận được lời mời làm việc rồi. Mình chẳng nghĩ gì nhiều vì sao họ tuyển nhanh như vậy hay là môi trường làm việc thế nào. Mình chỉ biết là mình cần việc trong ngành mình đang học, và lời mời làm lễ tân cho một khách sạn có tiếng như Marriott thì mình không thể bỏ qua. (Và câu trả lời cho việc tuyển nhanh chỉ là họ thiếu nhân sự trầm trong sau COVID). Đây là nơi lần đầu tiên mình ký hợp đồng làm việc rõ ràng, lần đầu hiểu thuế trong thực tế hoạt động như thế nào, và hiểu là học sinh ở Hungary thì ký hợp đồng với bên thứ ba (school agency) để đi làm cho công ty của mình sẽ ra sao. Mình đã từng viết về việc công việc này dạy mình nhiều điều đáng quý đến thế nào (ví dụ như cách đối xử với khách hàng, kỹ năng giải quyết vấn đề) và cả những điều chưa phù hợp với bản thân (ví dụ là làm ca kíp) ở bài blog Những bài học và trăn trở từ công việc đầu tiên vài năm trước. Lần này, mình muốn viết kỹ hơn về khía cạnh hợp đồng dành cho học sinh thì sẽ thế nào trong ngành dịch vụ.

Đến tận bây giờ khi đi làm mình vẫn ký một loại hợp đồng như vậy với các công ty, nhưng khi làm lễ tân thì dạng hợp đồng ấy khiến mình cảm giác có phần “thiệt” hơn người khác. Khi được trả lương theo giờ, bạn ở đó bao nhiêu tiếng thì bạn được trả lương bấy nhiêu, chuyện những phúc lợi khác là tuỳ vào các điều khoản mà công ty đưa ra. Mình hồi đó chưa biết rõ một điều hiển nhiên là nhân viên trong ngành khách sạn, nhà hàng dựa vào tiền tips, tiền hoa hồng để nâng cao thu nhập bên cạnh lương cứng. Với số tiền tip đó, lương của họ có thể nhân lên gấp rưỡi hoặc hơn so với mức cố định. Hoá ra là, với hợp đồng trả lương theo giờ của mình, mình không được chia tiền tip như những đồng nghiệp khác. Ngày ấy, có hai loại tiền tip: một là bạn nhận tiền khi bạn bán thêm (upsell) được một số dịch vụ nhất định, và hai là tiền tip chia trên đầu người của ban lễ tân từ những dịch vụ chung. Mình đi làm một, hai tháng thì mới nhận ra là có những lúc mình upsell được khách trong những dịch vụ như cách thứ nhất, cũng có ghi tên bản thân vào danh sách, hồ sơ của phòng ban như những người khác, nhưng mình không nhận được thêm một đồng nào. Và tất nhiên, những tiền tip nằm trong cách 2 cũng không có mình vì mình làm việc dưới một hợp đồng khác với các nhân viên toàn thời gian chính thức – họ ký hợp đồng trực tiếp với công ty chủ quản. Ở một khía cạnh khác, mình thấy nó cũng hoàn toàn đúng thôi khi mà các nhân viên toàn thời gian mới những người bán upsell chính, còn mình chỉ ở đó để học việc. Rõ ràng là họ mới là người nhận những số tiền mà họ kiếm ra đó, mình không có quyền gì mà đòi hỏi có phần cả.

Khi nhận ra những điều này, nó cũng làm mình hơi chững lại để suy nghĩ về những đầu việc mình làm và giá trị một giờ làm việc của mình ra sao. Nếu mình bỏ đi những đầu việc có thể quy ra tiền tip ở cả hai mục ấy, mình coi như cắt đi phải 1/3 những điều mình vốn cần làm trong công việc lễ tân này. Nhưng có lẽ điều làm mình lăn tăn ngày đó lại nằm phía còn lại – những tiền hoa hồng được chia trực tiếp cho người upsell thành công cho một số dịch vụ nhất định. Cũng rất nhiều khi là từ một lần mình upsell thôi, tiền hoa hồng đã lớn hơn cả tiền lương một giờ ghi trên hợp đồng. Vậy là mình chấp nhận rằng hợp đồng này vốn nó đã hơi thiệt thòi cho phía học sinh. Mình chấp nhận là tiền tip mình kiếm được từ cách thứ nhất sẽ không là của mình mà sẽ được chia đều ra cho các đồng nghiệp khác. 

Tất cả những điều phía trên là để đổi lại mình được ở đây học hỏi về ngành khách sạn, hiểu những phòng ban mình tiếp xúc vận hành như thế nào, và có những đồng nghiệp tốt, yêu nghề. Đi làm ở đây 9 tháng, điều quý giá nhất chính là mình hiểu môi trường này không dành cho mình, và mình tìm ra chủ đề cho bài luận văn ra trường: sự phục hồi và phát triển của ngành khách sạn sau đại dịch. Từ giờ, mình sẽ hỏi về môi trường làm việc kỹ hơn trong các buổi phỏng vấn và đọc hợp đồng cẩn thận hơn trước khi ký. Nếu có quay lại thời điểm nhận công việc này, mình chắc chắn vẫn sẽ đồng ý lời mời của công ty, chỉ là có thể mình đã quản lí sự kỳ vọng của bản thân tốt hơn. Mình hiểu là không phải là công việc nào cũng trả lương công bằng, nhưng khi mình còn rất trẻ thì tiền chưa phải là ưu tiên lớn nhất. Kinh nghiệm làm việc, những mối quan hệ, hiểu đâu là môi trường phù hợp, và tìm ra mình muốn điều gì trong sự nghiệp sau này phải chăng mới là những điều quý giá nhất?

Tuổi 22-24

Đến khi may mắn được giới thiệu để đi làm công việc bàn giấy đầu tiên ở Hungary, mình đã không còn ở trạng thái quá chật vật vì tiền nữa. Lúc này mình đang học kỳ cuối cùng và hoàn thành bài luận văn trước khi ra trường. Đây là công việc đánh dấu khoảng thời gian mình cảm thấy ổn với mức lương được nhận và không cảm thấy bị đồng tiền trói buộc như trước kia nữa. Tuy vậy, mình vẫn vật lộn với việc chi tiêu thế nào cho hợp lí. Một công việc làm hoàn toàn ở văn phòng, đồng nghĩa với việc nếu muốn tự ăn đồ ăn mình chuẩn bị mỗi ngày thì mình cần phải có khả năng quản lí thời gian cực kỳ tốt để có thể tính toán nấu ăn mỗi tuần sao cho tiện lợi và tiết kiệm nhất. Nhưng cuộc sống đâu có phải lúc nào cũng hoàn hảo để mình luôn kịp nấu ăn cho chính mình mỗi ngày mỗi tuần. Kể cả là có chuẩn bị đồ ăn dạng meal prep (nấu một lần và ăn trong vài ngày sau đó), vẫn có vô vàn lần mình quá bận không thể kịp chuẩn bị bất kì một thứ gì để mang đi làm. Thế là rồi thay vì ăn sáng ở nhà hay là nấu ăn từ hôm trước, buổi sáng mình vội vàng ra ngoài mua bánh ăn tạm, đến trưa thì ra ngoài trung tâm thương mại để mua đồ ăn. Và lại quay lại với đơn vị “số giờ làm việc”, mình đi làm được 6 tiếng hôm đó chẳng hạn, riêng tiền ăn đã tốn mình tiền lương của 2 tiếng rồi. Nó làm mình suy nghĩ rằng những điều này có lí hay không khi mà mình có lương nhưng không giữ lại được nhiều vì mình ăn hàng quán nhiều hơn bình thường. Trong khi đó, nó lại đến từ việc mình bận đi làm từ 9 giờ đến 6 giờ (chưa tính thời gian di chuyển) và về nhà thì lại ngồi viết luận văn thay vì thư giãn, nấu ăn, chăm sóc cho sức khoẻ? Công việc này nó làm mình ngẫm nghĩ nhiều về sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống, về việc giới hạn của mình là ở đâu. Mối quan tâm của mình không còn chỉ là làm thế nào để kiếm ra tiền nữa, mà còn là làm thế nào để chi tiêu hợp lí và có được một cuộc sống cân bằng hơn. 

Bẵng đi đến năm nay, mình có một công việc làm việc từ xa 100%. Như mọi người có thể thấy trong ảnh trên là mình đến văn phòng nhưng cũng chẳng có ai mấy, vì ai cũng đang làm việc ở nhà hết rồi. “Văn phòng” của mình hiện tại là … bàn ăn của IKEA trên giường vì ở ký túc xá mình không có đủ không gian để sử dụng khu vực bàn học có sẵn cho việc đi học và làm việc. Nghe hơi trớ trêu nhỉ? Lương của mình cũng vẫn … khiêm tốn so với mặt bằng chung, nhưng làm việc ở nhà thế này lại cho mình một sự tự do và linh hoạt mà mình mong muốn. Không dành thời gian di chuyển trên xe để đi đến chỗ làm nữa, trong khoảng thời gian trống buổi sáng ấy mình có thể ngủ nhiều hơn một chút, có thể đi tập thể dục, hoặc có thể chuẩn bị cơm trưa cho chính ngày hôm đó. Thành ra là, dù giờ có thể lương của mình vẫn nhàng nhàng vậy thôi, nhưng mà mình có sự linh hoạt trong việc quản lí thời gian. Từ đó, nó lại cho mình nhiều tự do hơn để cân bằng những khía cạnh quan trọng khác trong cuộc sống.

Đến cuối cùng, trách nhiệm học hỏi về quản lí tài chính cá nhân là của mình chứ không phải của ai khác. Nếu cho bản thân một lời khuyên khi còn ở Việt Nam trước đi du học, chắc chắn mình sẽ khuyên bản thân tìm hiểu về cách quản lí chi tiêu đầu tiên. Mình cần có một nền tảng vững chắc về mức độ cơ bản nhất trong tài chính cá nhân và tập thực hành nó thật tốt như vậy đã, rồi mới có thể nghĩ được xa hơn. Đến giờ, mình hiểu là tiền không mua được hạnh phúc, nhưng nó sẽ cho mình sự an yên trong lòng, sự tự do, và sự linh hoạt để làm những việc mình muốn.


Bài blog này mình viết ra đơn thuần là để ghi lại những thay đổi trong suy nghĩ của mình về tiền qua những năm đầu tuổi 20. Mình biết là nó chưa hoàn thiện và còn nhiều thiếu sót, nhưng đồng thời mình cũng vô cùng háo hức để học và hiểu hơn về cách quản lí tài chính của bản thân trong tương lai. Mình vẫn đang học cách trưởng thành, và những tư duy về tiền sẽ dần trưởng thành cùng mình. Mình cần làm vậy để không thấy sợ chủ đề này nữa. Mình không muốn bản thân rơi vào trạng thái lo sợ, xấu hổ, căng thẳng khi nghĩ về nó như ngày mình còn 20, 21 tuổi. Mình tưởng tượng nếu 10 năm nữa mình có ngồi lại và viết một bài blog tương tự, chắc nó sẽ còn khác bây giờ nhiều lắm.

Cảm ơn mọi người đã dành thời gian để đọc đến tận đây nhé! Rất mong trong hành trình tập trưởng thành cần đầy kiên nhẫn này vẫn sẽ luôn có người đọc đồng hành từng bước với mình như vậy ☺️

Đi tìm một con đường mới

Trên trường đại học mình đang hoàn thành chương trình học về Du lịch và Khách sạn. Hiện tại, điều đơn giản nhất miêu tả được việc học hành/sự nghiệp của mình chính là mình muốn đổi ngành. Mình muốn làm việc trong một ngành khác, có thể là một nhánh của ngành du lịch, nhưng mình không muốn tiếp tục trải nghiệm và làm việc trong ngành khách sạn nữa.

Vì sao mình dừng lại

Thực chất mình vốn đã thích bên du lịch hơn khách sạn rồi, nhưng các vị trí thực tập sinh ở Hungary thì lại có nhiều trong khách sạn hơn và dễ xin hơn là việc trong ngành còn lại. Cứ như thế, mình làm việc ở vị trí lễ tân khách sạn trong vòng chín tháng ở một khách sạn bốn sao ở Budapest. Mình đã học được rất nhiều cũng như hiểu hơn rất nhiều về ngành khách sạn và chính bản thân mình. Điều mình biết ơn nhất ở đây sẽ là việc mọi người cho mình một cơ hội để được học hỏi và đào tạo từ con số không, những đồng nghiệp rất tốt, sự tiếp xúc với nhiều người ở nhiều ngành nghề lĩnh vực khác nhau, và sự khẳng định là ngành khách sạn không dành cho mình. Mình biết có rất nhiều mảng và vị trí trong ngành này, chứ không chỉ là làm ở khu vực lễ tân, nhưng mình cũng không còn muốn tìm hiểu sâu hơn hay tiến lên trong ngành này nữa. Chỉ đơn giản là nó không hợp.

Thẻ tên mà mình đeo khi mình làm việc.

Thời kỳ đầu khi mình mới đi tìm việc, mình khao khát vô cùng được thực tập ở một trong số các khách sạn năm sao tại trung tâm thành phố Budapest. Mục tiêu của mình ngày ấy là mình sẽ làm việc ở bất kỳ khách sạn nào để có kinh nghiệm ban đầu đã, rồi sau này mình sẽ có cơ hội ký hợp đồng thực tập ở những khách sạn lớn hơn. Đúng như kế hoạch, hôm qua mình đã được mời làm việc ở vị trí thực tập sinh cho một trong những khách sạn lớn nhất ở thành phố, ngay rìa sông Danube. Đây từng là một cơ hội mình mơ ước có được suốt từ ngày mình mới bắt đầu đi du học. Với những ai học ngành du lịch và khách sạn ở Budapest như mình, đây chắc hẳn là điều mà rất nhiều người cũng muốn có được cho mình trong những bước đi đầu tiên của sự nghiệp đúng không? Nhưng ở thời điểm này, mình đã hiểu và chắc chắn rằng đây không phải con đường mình muốn theo đuổi và phát triển. Và thế là sáng nay mình gửi email từ chối, bất kể rằng đây cũng là một khách sạn rất danh tiếng, chỉ vì công việc không hợp với mình và mình không thấy được tương lai phát triển lâu dài trong ngành. 

Mình sẽ nói qua những điều mình thích và chưa thích ở công việc lễ tân. Đây chỉ là ý kiến của chính mình dựa vào sở thích cá nhân và đúng một công việc duy nhất mình có này. Mình biết chắc chắn là có những điều mình chưa thấy ưng ý hay phù hợp với bản thân lại là điều mà người khác không thấy phiền hà gì, thậm chí còn yêu thích.

Một số điều mình thích và học được qua công việc này (không theo thứ tự):

● Hiểu về ngành khách sạn hơn, cách một khách sạn vận hành, đặc biệt là cách các phòng ban giao tiếp với nhau và được phân bổ những trách nhiệm gì.
● Đồng nghiệp rất tốt và ủng hộ lẫn nhau. Đa số mọi người đều lớn tuổi và có nhiều kinh nghiệm hơn mình, nên mình học được rất nhiều từ sự chỉ dẫn của họ.
● Kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, và giải quyết vấn đề chắc chắn là những thứ mình trau dồi được nhiều nhất.
● Nhìn ra điểm mạnh, điểm yếu của bản thân một cách rõ ràng hơn. 
● Học cách chấp nhận và vượt qua việc mình sẽ mắc lỗi khi bắt đầu làm một công việc mới. Mình hiểu là không có gì là không thể sửa được. Mọi chuyện sẽ đều có cách giải quyết.
● Hiểu hơn về các kiểu hợp đồng làm việc ở Hungary dành cho học sinh, và một số điều khoản, luật lệ liên quan. Ví dụ về một số khía cạnh mình hiểu rõ hơn là những chính sách về thuế ở đây, những chính sách đãi ngộ dành cho nhân viên và quyền lợi của họ.
● Đồ ăn miễn phí ở căng tin ☺ việc không phải dành thời gian chuẩn bị đồ ăn cũng tiết kiệm thời gian và tiền bạc rất nhiều. Không thể nói là mình thích hết tất cả các món từng thử được, nhưng mình thấy hay là họ nấu đồ ăn Hungary nên mình cũng được thử nhiều món ăn truyền thống và đa dạng hơn (ít ra là so với những gì thường xuất hiện trong thực đơn ở các nhà hàng thông thường).
● Cảm thấy tự tin hơn về chính mình. Mình cũng từng không biết gì về việc làm lễ tân, nhưng giờ mình đã có thể làm khá tốt và thuần thục các công việc hàng ngày rồi. Điều gì mình cũng có thể học được nếu mình cố gắng và dành tâm sức cho nó. 
● Mình hiểu hơn về một người làm trong ngành dịch vụ cần phục vụ khách hàng sẽ mong muốn điều gì khi tiếp xúc với khách. Mình sẽ chọn làm những điều gì mà khiến công việc của những người này dễ dàng và nhẹ nhàng hơn nếu mình biết có cách như vậy.

Một số điều mình không thích/không thấy phù hợp (không theo thứ tự):

● Đầu tiên sẽ là thứ mình coi là điểm yếu của chính mình: Rào cản về ngôn ngữ. Điều hiển nhiên là khi ai nói được tiếng Hungary khi làm việc trong ngành du lịch và khách sạn ở Hungary sẽ có nhiều lợi thế trong giao tiếp hơn. Khi mình không ở gần thì các đồng nghiệp người Hung sẽ nói tiếng Hung với nhau, cũng là hiển nhiên thôi, và đồng nghĩa là không phải lúc nào mình cũng tham gia vào cuộc nói chuyện được. Mình không hề hà gì việc ấy, nhưng điều làm mình căng thẳng nhất là khi mình phải nhờ đồng nghiệp giao tiếp bằng tiếng Hung hộ mình. Chắc hẳn không ai muốn đổ thêm việc cho người khác, nhưng mình lại bắt buộc phải làm như thế khi cần tiếp xúc với những khách hàng và đồng nghiệp chỉ nói tiếng Hung.
● Lịch làm việc linh động. Điều này vốn là rất tốt vì nhân viên có thể xếp lịch thoải mái hơn, thậm chí có thể nghỉ vài ngày liên tiếp nếu muốn. Nhưng do môi trường làm việc của mình, sự linh động này lại nghiêng về hướng không tốt nhiều hơn. Ít nhân viên, giờ giấc thay đổi liên tục (ví dụ hôm dậy rất sớm, hôm lại về rất muộn), và lịch làm việc hàng tuần được báo vào giữa cuối của tuần trước đó nên suốt 9 tháng làm việc mình gần như không có cuộc sống cá nhân. Quá khó để xếp lịch đi chơi, đi du lịch, và nghỉ ngơi. Đặc biệt là vừa đi học vừa đi làm khiến mình luôn cảm thấy kiệt sức. Mọi thứ xung quanh mình đảo lộn y như lịch làm việc xoay vần.
● Làm việc cuối tuần. Đây là đặc thù của nghề rồi. Với cá nhân mình thì mình sẽ chọn làm giờ hành chính từ thứ hai đến thứ sáu như đại đa số mọi người, chỉ để được có một lịch sinh hoạt nhất quán và biết là mình luôn được nghỉ ngơi vào cuối tuần. Biết là tuần nào mình cũng sẽ có ngày nghỉ cố định nghe tưởng đơn giản mà lại vô cùng quý giá kể từ khi mình làm công việc này.
● Sự lặp đi lặp lại. Công việc nào cũng sẽ có những cách làm việc cố định của nó, nhưng mình mong mỏi sự lặp lại của các dự án thay vì những thao tác hàng ngày của công việc lễ tân này. Các dự án sẽ có đầu, có giữa, có cuối, và mỗi lần lại là một điều gì đó mới mẻ. 
● Mình không được sử dụng nhiều những kỹ năng phân tích, máy tính, và “văn phòng” hơn mà mình đã dành thời gian để học và trau dồi trên trường học hay trong các dự án hoạt động ngoại khoá. Từ đấy mình cũng mong công việc tương lai sẽ mang đến nhiều thử thách và cơ hội hơn để mình vận dụng những kỹ năng này vào thực tế.
● Lúc nào cũng phải làm nhiều việc một lúc. Mình theo hướng làm một việc thật tập trung, xong rồi là xong, thì sẽ hiệu quả hơn rất nhiều việc phải nhảy qua nhảy lại vài việc liên tục. 
● Những khách hàng thô lỗ. Cái này không cần phải nói nhiều. Mình không muốn dành năng lượng cho những điều tiêu cực, nên càng không muốn tiếp xúc và bị “chà đạp” bởi những cách cư xử này.

Bây giờ nghĩ lại, mình cũng không nghĩ việc mình đặt mục tiêu làm việc ở các khách sạn lớn là điều mình luôn mong mỏi. Điều này thực chất xuất phát từ việc phần lớn những người đi trước mình đều đi con đường này, vậy nên mình cũng muốn thử để biết xem nó ra sao. Mình mừng là mình cũng đã học được rất nhiều, có những đồng nghiệp vô cùng tuyệt vời, và hiểu chính bản thân mình hơn về những điều mình mong muốn trong sự nghiệp. Mình mừng là mình cũng đã chủ động kết thúc công việc lễ tân khi mà mình chưa đến mức có những cảm xúc quá tiêu cực về nó. Nếu ở lại lâu hơn, mình sợ rằng mình sẽ thấy ngột ngạt, áp lực, buồn bực, và trống trải vì làm một công việc mình không yêu thích. Một lần nữa, công việc này không có gì quá tệ hết, chỉ là nó không hợp với mình. Mình đã cố gắng hết sức cho những điều cần phải hoàn thành rồi (chính là một công việc thực tập bắt buộc trong ngành học mà nhà trường yêu cầu), giờ là lúc phải tìm cách thay đổi và tiến lên thôi.

Nhìn về tương lai

Khi mình viết những dòng này thì mình chưa có được một lời mời cho công việc mình mong muốn được làm và trải nghiệm nhất. Mình cũng đã và đang nộp hồ sơ xin việc ở nhiều nơi, và cũng nhận lại vô vàn những lời từ chối. Tìm được một công việc mà vừa tạo ra giá trị cho người khác, vừa bao gồm điểm mạnh và sở thích của mình không phải là một điều vô cùng dễ dàng với mình ở thời điểm này. Khi mình vẫn còn thấy mình non nớt trong những bước đi đầu tiên của sự nghiệp, một lần nữa, mình chỉ cần ai đó, nơi nào đó cho mình một cơ hội để bắt đầu, để học hỏi, để được chỉ dẫn. Thật may mắn là mình không cảm thấy mình một mình trên hành trình tìm việc này. Mình có những người rất tuyệt vời xung quanh để ủng hộ mình, cho mình lời khuyên, học hành và trau dồi thêm kiến thức với mình. Thực sự không còn gì quý giá hơn thế.

Đây là một bài viết không phải để than vẫn, mà là một lời tạm biệt với công việc thực sự đầu tiên của mình ở Budapest, là sự chia sẻ về tâm trạng chông chênh của mình về những định hướng cho tương lai, và cũng là sự bày tỏ sự hào hứng về những điều sắp tới. Từ ngày xin nghi việc xong mình đã thấy nhẹ đi bao nhiêu. Đấy là sự tự do khi mình được tiếp tục kiếm tìm điều mình yêu thích. Đấy là sự hứng khởi trau dồi thêm những kiến thức và kỹ năng mới để bổ trợ cho công việc sau này. Đấy là sự hy vọng về một công việc phù hợp hơn với nhiều thử thách hơn để khiến mình phát triển và trưởng thành hơn nữa.

Những bài học và trăn trở từ công việc đầu tiên

Công việc mình có hiện tại không phải là công việc đầu tiên mình có trong đời, và cũng không phải công việc đầu tiên mình có ở đất nước mình đang học tập và sinh sống, nhưng đây lại là công việc đầu tiên mình có mà lại theo đúng ngành mình học về Du lịch và Khách sạn.

Theo rất nhiều cách thì công việc này vô cùng ý nghĩa với mình. Nó cho mình rất nhiều thử thách để vượt qua và lớn lên, kể từ ngày mình quyết định đi tìm việc ở Budapest cho đến tận ngày hôm nay. Tại sao lại khó khăn đến thế để có được một công việc chỉ dùng tiếng Anh ở Budapest, trong ngành Du lịch và Khách sạn, và trong khoảng thời gian đầu năm 2021 (khi mình quyết định đi tìm việc)?

Dịch bệnh. Khác với các thế hệ học sinh quốc tế đi trước với vô vàn vị trí mở ra trong các khách sạn, thời điểm mình muốn tìm việc (đầu năm 2021) vẫn là lúc Hungary còn có rất nhiều luật lệ và hạn chế về du lịch và di chuyển nói chung để kiểm soát việc gia tăng các ca nhiễm COVID-19. Khi mà thậm chí người bản địa ở đây còn không có việc vì các khách sạn đóng cửa (tạm thời hoặc vĩnh viễn), làm sao một đứa sinh viên năm hai chỉ giao tiếp được bằng tiếng Anh như mình có cơ hội trong thị trường làm việc?

Mình chỉ nói tiếng Anh. (Đến giờ đây vẫn là một khó khăn cho mình, và mình sẽ nói thêm về việc này sau). Hungary cũng như Việt Nam đấy là thứ tiếng chính của họ là tiếng bản địa, tiếng Hung. Và cũng như Việt Nam, trừ phi bạn rất giỏi và làm việc ở những môi trường quốc tế, mỗi tiếng Anh thôi là không đủ. Bạn cần cả tiếng bản địa nữa để giao tiếp được với đồng nghiệp và khách hàng. Hè năm ngoái mình đã gửi CV cho một khách sạn lớn ở trung tâm Budapest vào vị trí bồi bàn. Họ liên lạc với mình để trao đổi thêm rồi mà đến cuối thì họ không nhận vì mình không nói tiếng Hung. Khi bạn nói cả tiếng bản địa (hoặc thứ tiếng thứ 3, 4, vân vân ngoài tiếng Anh) nữa thì (có thể coi là lẽ đương nhiên) bạn sẽ có nhiều cơ hội việc làm hơn.

– Liên quan đến ý bên trên, chính là việc mình bị áp lực là cần phải có việc ở các khách sạn lớn mang tính quốc tế, vì chỉ khi đấy chuyện mình chỉ nói tiếng Anh mới không còn là trở ngại. Và việc để làm việc với khách sạn lớn khi mới chỉ là sinh viên năm hai không dễ dàng đến thế. Một trong những khó khăn lớn nhất là đa số những nơi đó họ chỉ nhận sinh viên với kỳ thực tập chính thức (trong khi đến tận kỳ cuối cùng của chương trình học ở trường mình mới có thể thoả mãn cái điều kiện này).

– Mình thiếu rất nhiều thứ. Mình không có kĩ năng tốt trong việc viết CV và trả lời phỏng vấn. Mình có một khoảng trống trong CV kéo dài khoảng 2 năm, từ hè 2019 đến hè 2021, với không một cập nhật nào mới trừ việc đi học. Vốn là mình đã định năm nhất chỉ dành để đi học (vì đúng là mình cần thời gian để thích nghi và đương đầu với lượng bài tập lớn ở trường thật), giờ lại còn thêm dịch bệnh và việc mình không tham gia thêm bất kì hoạt động ngoại khoá nào khiến CV trông rất … chán.

– Điều cuối cùng, chắc là khó khăn về mặt tinh thần. Mình thấy sốt ruột và bất lực trong gần như cả năm 2021 khi vẫn còn đang tìm việc. Mình cần có thêm thu nhập để trang trải cho cuộc sống hàng ngày và cho những kế hoạch tương lai. Mình cần một công việc theo ngành học để có thêm kinh nghiệm cho sự nghiệp sau này và để tìm xem mình yêu thích điều gì. Sự bất lực thì đến từ việc mình cảm thấy không nơi nào cho mình cơ hội để bắt đầu. Kỳ thực tập hay chương trình đào tạo thì nên dành cho những người với ít hoặc chưa có kinh nghiệm, nhưng những nơi mình cần (một số khách sạn quốc tế lớn) thì lại đòi hỏi ngầm việc mình phải có kinh nghiệm trước. Có lẽ cũng đúng thôi là họ cần những người giỏi nhất, nhưng nếu không cho người trẻ cơ hội để bắt đầu, thì làm sao họ có những kinh nghiệm đầu tiên đó được? Mình không nói đây là sự thật 100% vì rõ ràng là ngoài kia có những nơi sẽ cho người trẻ với không chút kinh nghiệm nào cơ hội làm việc. Ngày ấy thì cách nhìn nhận vấn đề của mình không quá tích cực, cộng với việc môi trường làm việc có nhiều giới hạn do tác động của dịch bệnh nữa, nên khó mà để mình không một lần có những suy nghĩ như thế này.

Tua nhanh đến ngày mình có công việc hiện tại thì mình có một số chia sẻ sau. Đây là những điều mình đã và vẫn đang học từng ngày ở vị trí lễ tân trong một khách sạn ở trung tâm Budapest. Có những điều nghe rất đơn giản và có khi là lẽ đương nhiên, nhưng vẫn lại là những điều mà mình không dễ dàng làm được trong thực tế hoặc mình càng nhận ra tầm quan trọng của nó hơn kể từ khi có công việc này. Dưới đây không phải tất cả những nhiều mình suy ngẫm, nhưng mình sẽ dần viết chúng ra trong những bài viết sau này với những chủ đề cụ thể hơn.

Chuyện gì rồi cũng sẽ có cách giải quyết. Chấp nhận là mình sẽ mắc lỗi, học từ nó, và vượt qua nó để không mắc lỗi tương tự sau này. Mình muốn thể hiện tốt trong công việc, và mỗi ngày đi làm mình muốn phải làm tốt hơn lần trước đó, bất kể là chỉ một chút. Mình biết là mình sẽ mắc lỗi vì mình đang học cách làm một công việc hoàn toàn mới, nhưng mình vẫn mất một khoảng thời gian dài để làm quen với điều đấy. Hơn nữa, kỹ năng làm việc nhóm, giao tiếp, và giải quyết vấn đề cũng vô cùng quan trọng. Mình cần chủ động làm những gì mình có thể trong khả năng và chủ động hỏi những gì mình không biết.

Chỉ nói thứ tiếng thứ hai là tiếng Anh ngoài tiếng mẹ đẻ thôi là chưa đủ. Điều này có thể đúng với rất nhiều người, nhiều ngành nghề, nhiều trường hợp khác nhau. Với mình, nó đúng vì mình muốn làm việc trong ngành Du lịch và Khách sạn và là một học sinh quốc tế ở một đất nước có thứ tiếng chính không phải là tiếng Anh. Tất nhiên, câu trả lời đơn giản là học thêm thứ tiếng khác đi, học thêm tiếng bản địa đi. Câu chuyện học tiếng sẽ lại dể dành cho những bài đăng sau này. Mình sẽ viết về những chật vật của mình và việc học một thứ tiếng mới từ con số 0. Đến giờ mình vẫn chưa sử dụng được tiếng nào ngoài tiếng Anh và tiếng mẹ đẻ, nhưng mình đang cố gắng để thay đổi nó.

– Công việc này làm mình nghĩ về COVID, và về những điều mình đã bỏ lỡ trong suốt 2 năm dịch bệnh. Mình đã từng có một kế hoạch cho những năm đi du học bậc đại học đó là mình sẽ cố gắng học nhiều môn ở trường hơn vào khoảng nửa đầu chương trình học, để nửa sau mình có thể đi làm mà không bị qua căng thẳng về lượng bài tập nhiều trên lớp nữa. Mình sẽ cố gắng đi du lịch thật nhiều vào những dịp cuối tuần và các kỳ nghỉ khi chưa có việc làm. Tất nhiên là COVID thay đổi mọi thứ. Mình không được đi du lịch, và cũng không đi du lịch được ngay cả khi Châu Âu dần mở cửa trong năm 2021 do nhiều hạn chế về quy định liên quan đến vaccine của nhiều nước và cả về khả năng chi trả của chính mình. Đến giờ khi mọi thứ ổn thoả hơn rồi, mình đã có thể đi du lịch nếu mình muốn, thì mình vẫn chưa thể sắp xếp được do giờ làm việc không cố định, và mình vẫn đang loay hoay học nốt những môn cuối cùng của chương trình học. Mình sẽ để những trăn trở này ở một bài viết khác, nhưng mình có thể khẳng định là khi mọi người thấy mình đi du lịch bên ngoài Hungary trong thời gian tới thì đó là một điều vô cùng đặc biệt với mình. Đấy sự cố gắng vô cùng tận trong rất nhiều khía cạnh trong cuộc sống của mình, và đấy là lúc những ước muốn mình bỏ ngỏ suốt hơn 2 năm thành hiện thực.

– Cân bằng cuộc sống khi vừa đi học vừa đi làm không hề dễ. Chỉ riêng câu chuyện có đủ năng lượng và sự tập trung để thể hiện tốt nhất cả ở chỗ làm lẫn trường học thôi đã khiến mình chật vật rồi. Ngoài ra, mình còn cần dành thời gian để gọi điện thường xuyên về nhà cho bố mẹ và duy trì những mối quan hệ quan trọng khác trong cuộc sống. Mình đã rất xa cái ngày lấy thành tích và sự bận rộn để chứng tỏ là mình không kém cỏi nữa. Đến giờ thì mỗi ngày mình được thúc đẩy với những câu hỏi: “Mình có đang hạnh phúc không? Đây có phải cuộc sống mà mình muốn sống không? Kể cả khi không biết mình đang đi hướng nào trong cuộc đời và đâu là “vạch đích”, mình có đang cố gắng đi để mỗi ngày mình tốt lên hơn được một chút hay không?”. Mình vẫn bận, và mình vẫn dành thời gian để nghỉ ngơi. Mình muốn bận để được tiến bộ hơn trong công việc và trên trường lớp. Bận vì mình cần có thời gian để nghỉ ngơi, chăm lo cho sức khoẻ của chính mình, và dành được thời gian cho những người xung quanh. Không phải lúc nào quỹ thời gian cũng được phân bổ đều đặn cho mọi khía cạnh quan trọng của cuộc sống, nhưng mình luôn cố gắng “xoay vòng” để mọi thứ có được sự quan tâm mà nó cần, và mình vẫn có những khoảng lặng để bản thân được nghỉ ngơi.

Khi mình viết bài viết này, mình không có chủ ý kể sự khó khăn nhiều hơn là những thông tin hữu ích. Nhưng mình lại nghĩ, mình cũng ước ngày mình mới bắt đầu tìm việc ở đây, mình có ai đó giúp mình nhìn nhận ra được những khía cạnh này. Ít ra là mình có thể biết sớm hơn những khó khăn mình sẽ gặp, để rồi mình chuẩn bị được tốt hơn khi đi tìm việc, và cả khi đã có việc rồi. Từ mình đến với tất cả những ai đang cố gắng bước những bước đi đầu tiên trong sự nghiệp, mình chúc tất cả chúng mình cùng mạnh mẽ vươn lên và tìm được cho mình điều mình yêu thích.

“A COVID-19 workbook”: Học cách giảm lo âu và đối mặt với sự không chắc chắn

Trong thời điểm dịch COVID-19 diễn ra phức tạp trên khắp các tỉnh thành trên cả nước như hiện nay, có thể việc bạn cảm thấy bức bối, chông chênh, khó đối mặt với sự không chắc chắn về tương lai, cùng những sự thay đổi về tâm lí khác là một điều khó tránh khỏi. Một trong những điều giúp cá nhân mình đối mặt với những sự thay đổi ấy trong ba đợt giãn cách xã hội tại Hungary suốt hơn một năm qua đó là hiểu về Khả năng chịu đựng sự không chắc chắn (Tolerance for Uncertainty), và làm thế nào để nâng cao khả năng đó trong thời điểm dịch COVID diễn ra. Sau đây mình sẽ chia sẻ với mọi người những điều mình học được về chủ đề này qua một số tài liệu mình được cung cấp trong khoá học Kể chuyện truyền cảm hứng (Inspirational Storytelling) tạo bởi Trường đại học Haaga-Helia (Phần Lan). Từ đó, mong rằng chúng cũng giúp bạn trải qua khoảng thời gian khó khăn này một cách nhẹ nhàng hơn, cả về thể chất lẫn tinh thần.

Khả năng chịu đựng sự không chắc chắn là gì?

Đúng như tên gọi của nó, khả năng chịu đựng sự không chắc chắn là khả năng mà trong đó con người có thể chịu đựng những điều không chắc chắn, khó đoán được trước, hay khó có thể kiểm soát được trong cuộc của họ. Với những người có khả năng chịu đựng cao thì sự không chắc chắn trong cuộc sống được coi là điều bình thường, họ có ít căng thẳng và vô lo vô nghĩ hơn nhóm còn lại với khả năng chịu đựng thấp. Với nhóm này, họ chấp nhận rủi ro nhiều hơn và nhận ra là họ có thể đương đầu với những vấn đề trong cuộc sống, kể cả là khi mọi chuyện không xảy ra hoàn hảo theo ý của họ. Ngược lại, nhóm chịu đựng kém hơn thì thường lo âu nhiều hơn và có thể coi sự không chắc chắn hay những điều khác biệt như một mối đe doạ. Hành động để đối mặt với việc này cũng rất đa dạng, ví dụ như việc tránh hoàn toàn những sự mơ hồ khó đoán bằng việc trì hoãn hay đánh lạc hướng bản thân bằng việc bận rộn để không phải đối mặt với tình trạng thực tế trong cuộc sống của họ.

Bất kể khả năng chịu đựng sự không chắc chắn trong cuộc sống của bạn nằm mức độ cao hay thấp, mình mong là bạn sẽ tìm được cho mình ít nhất một điều gì đó trong workbook sau đây để cuộc sống của bạn trong thời kì giãn cách xã hội này được an yên và dễ chịu hơn.

Workbook về khả năng chịu đựng sự không chắc chắn trong thời điểm COVID-19 (Dr. Sachiko Nagasawa)

“Tolerance for Uncertainty: A COVID-19 Workbook”, được viết bởi Dr. Sachiko Nagasawa (2020). Link: http://mncfn.ca/wp-content/uploads/2020/03/Tolerance-for-Uncertainty-COVID19-Workbook.pdf

Mình rất thích cuốn workbook này và rất khuyên mọi người hãy thử đọc qua ít nhất là một vài mục như sau: Sleep Hygiene, Common Coping Pitfalls, Emotional Regulation, Emotional Awareness, Stop Skill Worksheet. Sau đây là một số điều mình đã áp dụng và thấy là hữu ích nhất: 

1. Giữ cho mình một thời gian đi ngủ và dậy nhất quán.

Không ngủ trưa hoặc có giấc ngủ ngắn trong ngày để chắc chắn là cơ thể mình mệt vào thời điểm đi ngủ buổi tối.

Tạo cho mình một thói quen trước giờ đi ngủ để tự nhắc nhở cơ thể là mình buồn ngủ. Với mình thì đấy là việc tắm nước nóng và quá trình chăm sóc da buổi tối.

Chỉ dành giường cho việc đi ngủ và nghỉ ngơi. Điều quan trọng là sử dụng giường với đúng chức năng của nó để não mình có một sự liên hết rõ ràng rằng giường là nơi mà cơ thể mình được thư giãn và nạp năng lượng. Mình từng học bài suốt ngày trên giường và rồi khi đêm xuống lại rất khó để thực sự thả lỏng cơ thể và đầu óc, vì khi đó mình không dễ dàng tách biệt được không gian khi đi học (não hoạt động hết năng suất) và khi đến giờ đi ngủ (não cần được thả lỏng, nghỉ ngơi).

2. Nhận ra Những cạm bẫy phổ biến về sự đương đầu với khó khăn (Common coping pitfalls)

Ở phần này, tác giả chỉ ra ba loại cạm bẫy phổ biến nhất:

(1) Tránh né (ví dụ: tránh né tình huống hoàn toàn, liên tục tìm kiếm sự trấn an thay vì giải quyết vấn đề)
(2) Tê liệt & rút lui (ví dụ: dùng đồ uống có cồn, ăn uống vô độ và ngủ quá nhiều để giải thoát bản thân khỏi những cảm xúc không thoải mái)
(3) Sự tức giận (ví dụ: đổ lỗi cho một nhóm người vì gây ra đại dịch này, có những cơn giận dữ với những người cùng chung sống vì sự gián đoạn trong thói quen sinh hoạt của bản thân)

Điều đầu tiên để giải quyết một vấn đề luôn là việc chấp nhận và xác định là mình có một vấn đề như vậy trong cuộc sống để giải quyết, từ đó có những biện pháp phù hợp, bất kể là triệt để hay chỉ là sự giảm bớt. Để lấy ví dụ, trong khoảng thời gian đầu tiên khi Hungary mới phong toả, mình đã nhìn ra là mình dùng việc ăn vặt thường xuyên là cách để tránh đối mặt với những sự khó khăn trong cuộc sống do COVID (trong khi trước kia mình không ăn vặt nhiều đến thế). Ngày ấy tầng 1 của kí túc xá mình ở có một cái máy bán hàng tự động, gần như ngày nào mình cũng xuống mua đồ ăn vặt như là socola hay các loại bánh kẹo khác. Sau đây là phần trích dẫn từ “nhật kí” của chính mình vào thời điểm sử dụng workbook này:

3. Cho bản thân được nghỉ ngơi.

Dù mình học được từ một người chị mình rất yêu quý và kính trọng đó là đôi khi sự mất cân bằng cũng chính là sự cân bằng trong cuộc sống, mình vẫn cố gắng có được cho mình một sự cân bằng và hài hoà nhất định. Sự cân bằng này đề cập đến Hệ thống điều chỉnh cảm xúc (Emotion Regulation Systems) tạo bởi giáo sư Paul Gilbert (2009). Ông cho rằng con người thường sử dụng 3 hệ thống sau để điều chỉnh cảm xúc:

(1) Nghị lực (Drive): hoàn thành mục tiêu, đạt được thành tựu 
(2) Đe doạ (Thrive): bảo vệ, sống sót, tìm kiếm sự an toàn 
(3) Xoa dịu (Soothing): làm dịu, nghỉ ngơi, sự an toàn, tử tế, chăm sóc

Khi cả 3 hệ thống này được sử dụng với mức tần suất khá ngang bằng nhau thì chúng ta có thể kiểm soát cảm xúc của mình dễ dàng hơn. Tuy vậy, nếu bạn nhận ra là hệ thống xoa dịu của mình không được chú tâm đến và bạn dành phần lớn thời gian ở 2 hệ thống còn lại, đây chính là lúc để bạn để tâm đến việc nghỉ ngơi và xoa dịu cảm xúc của chính mình.

Hãy thử phản ánh lại cách bạn đang sử dụng 3 hệ thống trên, nghĩ đến cách bạn muốn nó được cải thiện như thế nào, và kể ra 3 điều mà bạn sẽ làm để thực hiện được mong muốn đó.

Sau đây là phần trích dẫn những suy nghĩ của mình trong quá khứ về cách mình sử dụng 3 hệ thống ấy:

4. Đi hỏi sự giúp đỡ khi cần

Nếu bạn cảm thấy quá nặng nề và khó khăn, đừng ngại ngần đi tìm kiếm sự giúp đỡ từ những người xung quanh. Kể cả khi bạn nghĩ rằng quanh mình không ai giúp đỡ được, hoặc bạn chưa muốn chia sẻ, thì hãy nhớ là sẽ luôn có sự giúp đỡ từ những người có chuyên môn, vì dụ như các dịch vụ tư vấn tâm lí. Mình hiểu rằng để tiếp cận những dịch vụ chuyên nghiệp như vậy thì cũng phụ thuộc vào cả khả năng tài chính, và đôi khi là từ chính khả năng ngoại ngữ của bạn khi mà người tư vấn nói tiếng anh chẳng hạn. Theo như mình biết, ở Việt Nam cũng có một số đường dây nóng hoặc tổ chức có sự hỗ trợ về mặt tâm lí qua hình thức nói chuyện, nhắn tin. Riêng về việc tư vấn bằng tiếng anh, gần đây mình có thấy trang Betterhelp có kết hợp cùng ca sĩ Ariana Grande để mang đến cho mọi người sự trợ giúp về sức khoẻ tinh thần: https://www.betterhelp.com/ariana/. Mình nghĩ rằng đây là một chương trình rất ý nghĩa, nên nếu bạn thấy mình cần được giúp đỡ như vậy thì hãy tìm hiểu kĩ để đăng kí nhé. Mình rất mong bằng cách này hay cách khác, ai cũng có được cho mình sự an yên trong tâm hồn.

Năm 2020, trong vài tháng đầu tiên khi dịch mới bùng nổ tại Hungary mình đã được nhà trường chuyển cho sống một mình một phòng tại kí túc xá để đảm bảo sức khoẻ cho học sinh. Mình đã gọi điện cho gia đình hàng ngày, có những ngày gọi đến vài lần và kéo dài đến vài tiếng, để mình được nhận sự giúp đỡ về tinh thần. Ngoài ra, mình cũng may mắn được học tập ở một ngôi trường quan tâm đến sức khoẻ tinh thần của học sinh nên đã gửi cho mọi người thông tin về phòng tư vấn tâm lí của nhà trường. Mặc dù thời điểm ấy mình không tìm đến phòng tư vấn như vậy để đươc giúp đỡ và kể câu chuyện của mình, nhưng khi nhìn lại thì có lẽ việc liên lạc với họ cũng đã có thể giúp mình thích nghi với cuộc sống mới trong đại dịch được nhẹ nhàng và êm xuôi hơn.


Mình nghĩ rằng đa số những sự thay đổi tích cực trong thời điểm này sẽ đến từ việc chủ động, chủ tâm tạo cho mình thói quen hàng ngày và dành thời gian để lắng nghe những nhu cầu của cơ thể và tinh thần của chính mình. Chúc bạn và những người xung quanh luôn khoẻ mạnh để cùng nhau đẩy lùi dịch thành công nhé.


Nguồn trích dẫn:

Gilbert (2009). The Compassionate Mind. London: Constable and Robertson. https://www.amazon.com/Compassionate-Mind-Compassion-Focused-Therapy/dp/1849010986

Nagasawa, S., 2020. Tolerance for Uncertainty: A COVID-19 Workbook. http://mncfn.ca/wp-content/uploads/2020/03/Tolerance-for-Uncertainty-COVID19-Workbook.pdf


Bạn có thể đăng kí nhận nội dung và bài viết mới của blog qua email tại đây.

Tư duy tích cực về cơ thể

Qua nhiều năm trải nghiệm, học hỏi về cách nhìn nhận và tư duy về cơ thể và ngoại hình, mình muốn chia sẻ với mọi người góc nhìn của mình về chủ đề này. Bài viết này dựa trên những trải nghiệm trong cuộc sống cá nhân của mình cũng như những điều mình học hỏi được.

Cá nhân mình từng trải qua rất nhiều khoảng thời gian trong quá khứ mà mình thấy tệ và tự ti về cơ thể mình. Từ việc tìm đến việc ăn uống để giải toả cảm xúc, cho đến việc so sánh bản thân với người khác và hướng đến những hình mẫu về cơ thể dường như không thể đạt được với cấu trúc cơ thể của chính mình. Mình vẫn đang trong một quá trình rất dài trong việc học hỏi, tiếp thu kiến thức trong chủ đề này, nhưng mình mong những chia sẻ về những điều mình đúc kết được có thể giúp ích cho bạn. Bài viết tập trung về tư duy và cách suy nghĩ hơn là những kiến thức chuyên sâu về tập luyện và ăn uống lành mạnh.

Bạn có thể làm gì cho chính bản thân mình để suy nghĩ tích cực về cơ thể?

Theo UN Women (Phụ nữ Liên Hiệp Quốc), phong trào “Tích cực với cơ thể” bao gồm ba điều như sau:

1. Chấp nhận sự đa dạng của tất cả hình dáng cơ thể bất kể khả năng thể chất, kích thước, chủng tộc, giới tính hoặc ngoại hình.

2. Dành sự quan tâm đến con người bên trong của mỗi cá nhân.

3. Từ chối chạy theo tiêu chuẩn vẻ đẹp phi thực thế do truyền thông, văn hoá và xã hội đặt ra.

Ba điều trên cũng chính là những thông điệp quan trọng nhất mình muốn truyền tải và lan toả đến mọi người.

Tiêu chuẩn về vẻ đẹp không phải là một điều bất biến. Những tiêu chuẩn ấy là điều dễ thay đổi theo thời gian và tuỳ theo cách nhìn nhận của số đông ở một thời điểm nhất định. Vậy tất cả chúng ta càng cần nhạy cảm hơn về cách bản thân đánh giá về ngoại hình và học cách nhìn rộng mở hơn về những tiêu chuẩn vẻ đẹp khác nhau. Như bức hình dưới đây, bạn sẽ thấy hình mẫu lí tưởng về cơ thể phụ nữ thay đổi thế nào qua chiều dài lịch sử:

Nguồn: https://greatist.com/grow/100-years-womens-body-image#7

Học cách tự sàng lọc và chủ động lựa chọn những thông tin bản thân tiếp nhận cũng là một điều hết sức quan trọng. Trên mạng, rất nhiều người chỉ luôn thể hiện những gì đẹp đẽ nhất trong cuộc sống của họ, có khi còn đã được chọn lựa và chỉnh sửa kĩ càng. Bởi vậy, khi bạn nhìn vào những nội dung đó, bạn sẽ khó có được một cái nhìn toàn cảnh và chân thực về cuộc sống của họ như thế nào. Hãy chủ động tiếp nhận thông tin về những vẻ đẹp thực tế, đa dạng trong cuộc sống và đừng ngần ngại bỏ theo dõi/chặn những nguồn thông tin mà bạn cho rằng không tích cực, hoặc không mang lại giá trị tích cực cho bản thân mình.

Đi cùng với việc chấp nhận sự đa dạng về ngoại hình của những người khác chính là chấp nhận ngoại hình của chính cơ thể mình. Khi mình chấp nhận rằng cấu trúc cơ thể mình là cha sinh mẹ đẻ đã như vậy, với một chiều cao như vậy, … mình chỉ có thể tập luyện và ăn uống khoa học lành mạnh để trở thành phiên bản tốt nhất và khoẻ mạnh nhất của chính mình; thì khi đó mình sẽ cảm thấy tự do và không có những gánh nặng vô hình đè lên mình nữa.

Hãy học cách yêu thương và biết ơn chính cơ thể mình. Khi mình nghĩ rằng đôi chân đã giúp mình đi đến bao nhiêu nơi và gặp bao nhiêu người mới, đôi mắt này giúp mình cảm nhận cuộc sống đầy màu sắc xung quanh, và đôi bàn tay này giúp mình viết ra những dòng này và mang thông điệp đến bạn là mình lại tràn đầy lòng biết ơn với cơ thể mình có.

Tất cả đều là một quá trình. Chỉ cần bạn bắt đầu từng bước một, từng ngày một để trau dồi bản thân và yêu thương chính mình từ bên trong thì sớm muộn gì bạn cũng có được cho mình sự bình yên và tích cực với ngoại hình.

Bạn có thể làm gì để lan toả sự tích cực về cơ thể đến cho người khác?

Hãy hành xử một cách văn mình và tế nhị. Đừng bình phẩm về cơ thể người khác, bất kể là ở nơi công cộng và công khai hay trong những nhóm kín.

Một khi đã là những lời bình phẩm không mang tính xây dựng, thì bất kể nó ở dưới dạng một câu hỏi hay một lời đùa, đều không nên nói ra. Hãy đừng suy nghĩ rằng nếu không nhiều người biết đến ý kiến của bạn thì bạn có thể thoải mái nói những điều đó với một nhóm nhỏ ít người. Điều quan trọng nhất là những lời bình phẩm tiêu cực không diễn ra và lan rộng, chứ không phải việc bạn có thể “giấu” nó đi chỉ vì lời nói ngoài đời không được ghi lại hay việc bạn không có nhiều người lắng nghe tại một thời điểm nhất định.

Đừng nghĩ bạn nói có 1 lần thì có sao đâu, hay người ta “được” bạn bình phẩm bông đùa là họ cũng thích mà giả vờ tỏ vẻ khó chịu. Bất kể trong mắt bạn thì họ đẹp hay không, và bạn nghĩ rằng câu nói của mình không gây hại gì, thì luôn nhớ rằng điều quan trọng là sự văn minh, tế nhị và tử tế. Tin mình đi, không ai có nhu cầu bị bình phẩm và bông đùa về ngoại hình ở dưới bất kì hình thức nào!

Tự đánh giá lại tiêu chuẩn về vẻ đẹp của chính mình và không áp đặt nó lên người khác.

Như mình đã truyền tải ở phía trên, mỗi người đều có một ngoại hình khác nhau và những tiêu chuẩn về cái đẹp khác nhau. Điều bạn có thể làm khi sống trong một thế giới với sự đa dạng như vậy thì hãy học cách tôn trọng người khác, cả về ngoại hình lẫn ý kiến của họ. Tất cả mọi cuộc tranh luận mang tính xây đựng đều có thể diễn ra, chỉ cần bạn luôn bình tĩnh và truyền tải trông điệp một cách văn minh. Bạn luôn có quyền tự do ủng hộ tiêu chuẩn về vẻ đẹp mà bạn thích, nhưng đừng áp đặt nó lên người khác.

Khi quan tâm đến sức khoẻ của người khác, hãy tìm cách tế nhị và văn minh để bộc lộ điều đó qua lời nói và hành động.

Mình thấy rằng việc mở đầu câu chuyện bằng việc nói đến ngoại hình béo lên hay gầy đi lại là một việc không phải hiếm gặp ở Việt Nam. Bởi vậy, mỗi người cần tự nhận thức trước về chuyện bình luận được cho là xã giao và “bình thường” này là một điều mà ít nhiều cần thay đổi. Có những người thực sự quan tâm đến sức khoẻ của người đối diện nên mới đề cập như vậy, nhưng cần có những cách bộc lộ tế nhị hơn. Thay vì mở đầu câu chuyện như trên, bạn có thể để chủ đề này lại sau và bộc lộ thiện chí của bạn đến từ sự quan tâm đến sức khoẻ của họ, thay vì ngay lập tức hỏi mà không để ý đến việc họ có thoải mái đón nhận hay không. Một khi người đối điện đã có ý muốn tránh hoặc đổi chủ đề trò chuyện thì hay nghe theo họ chứ đừng nhất quyết đào sâu hơn. Sự quan tâm cũng cần có giới hạn khi người nhận đã bộc lộ cái chừng mực đó với bạn.

Đề cập, học hỏi, lắng nghe và lan toả những thông điệp tích cực về ngoại hình

Những hành động đơn giản như: lắng nghe một người khi họ gặp những khó khăn trong việc kiểm soát cân nặng; tìm kiếm, chia sẻ những thông tin hữu ích để góp phần tạo nên một cộng đồng tích cực hơn; dám nói lên suy nghĩ của bản thân và ngăn chặn những hành động tiêu cực của người khác;… đều đáng trân trọng và nên được lan toả rộng hơn.


Mình mong rằng cả mọi người hãy cũng cố gắng tạo dựng nên một xã hội công bằng và an toàn hơn để tất cả chúng ta đều được sống một cách thực sự tự do và thoải mái. Tất cả đều bắt đầu từ việc tự trau dồi chính bản thân mình, tìm hiểu thêm về tích cực với với cơ thể từ những nguồn thông tin đáng tin cậy, áp dụng những kiến thức đó vào thực tế và lan toả những thông điệp đó tới nhiều người hơn nữa.


Ảnh bìa bởi Juan Manuel Aguilar trên Unsplash.

Bạn có thể đăng kí nhận nội dung và bài viết mới của blog qua email tại đây.

“Nhà làm giày” – Cửa hàng nhỏ của gia đình mình

Mình sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, trong gia đình mà bố mẹ là những người lao động chân tay. Bố mẹ đã dạy mình vô vàn điều trong cuộc sống, và một trong những điều mình hiểu từ rất sớm, khi vẫn còn đi học mẫu giáo, đó là niềm tự hào về công việc xuất phát từ lao động chân chính. Nếu để mô tả đầy đủ về công việc của bố mẹ mình thì đó là làm chủ một cửa hàng nhỏ bán giày nam và sửa giày dép ở một ngõ nhỏ tại Hà Nội. Nhưng để nói gọn lại và cũng như cách khách hàng và mọi người xung quanh hay gọi thì đơn giản là “nhà làm giày”.

Năm mình sinh ra cũng là năm mà bố mẹ mở cửa hàng giày ngay tại tầng một của ngôi nhà nơi gia đình mình sinh sống. Bởi vậy, chỉ cần nhìn tuổi của mình là mọi người luôn biết được gia đình mình đã theo nghề làm giày được lâu năm đến thế nào. Suốt 21 năm, bố mẹ mình đã thay đổi rất nhiều khía cạnh trong việc kinh doanh để cố gắng duy trì nguồn thu nhập ổn định nuôi sống cả nhà. Mình nhớ ngày mình học mẫu giáo thì bố mẹ đã từng dành một không gian nhỏ gần cửa ra vào để dựng bốt điện thoại (khi mà điện thoại di động còn chưa hề phổ biến) để kiếm thêm thu nhập. Ngày ấy gia đình mình còn tự làm giày theo yêu cầu của khách bằng việc căn đo đong đếm lắp ráp từng bộ phận của một đôi giày da theo số đo của họ. Bố mẹ còn bán giày trẻ em, guốc dép dành cho phái nữ, và có thể còn vô vàn những chi tiết khác mà một đứa bé như mình ngày ấy không nhận ra. Sau từng ấy năm, đến giờ thì cửa hàng giày còn lại đúng những chiếc tủ áp toàn bộ vào ba phía tường để trưng bày giày nam, một chiếc tủ di động nho nhỏ bên ngoài trưng bày phụ kiện chăm sóc giày, và phần không gian còn lại dành cho việc sửa chữa giày dép.

Thế con gái của nhà làm giày thì sẽ như thế nào? Đó là việc từ ngày bé đã được bố mẹ chở qua các con phố Hà Nội để nhập những mẫu giày mới và tìm mua những nguyên vật liệu hỗ trợ cho quá trình sửa chữa giày cho khách. Mặc dù khi đến nơi thì mình chỉ ngồi trên xe máy đợi bố mẹ ở bên ngoài cửa hàng, nhưng được rong ruổi khắp nơi, nói chuyện trên trời dưới biển sau tay tái của bố thì luôn là những giấy phút mình trân quý. Khi nào mà đi qua phố Tràng Tiền trên đường về nhà thì bố mẹ còn mua kem cho mình ăn nữa. Tiếp theo sẽ là việc trông cửa hàng giúp bố mẹ khi họ bận. Ngày bé thì mình sẽ trông cửa hàng cùng anh trai để phụ gia đình như thế, sau này lớn hơn, khoảng cấp 2 trở đi là mình sẽ trông một mình. Đến giờ mình vẫn nhớ câu mình luôn nói với khách: “Bố mẹ cháu đang đi vắng một lúc, cô/chú sửa giày thì cứ bảo cháu cần sửa chỗ nào rồi cháu báo lại với bố mẹ ạ. Một đến hai ngày nữa cô/chú quay lại nhận giày ạ.”; hoặc là “Cô/chú cứ xem giày mới thoải mái. Bố mẹ cháu đi vắng một lúc sẽ quay lại ngay ạ”.

Nhà chuyên về giày dép nên tất cả giày dép của các thành viên trong gia đình luôn được “nâng cấp” cho thật chắc chắn bằng việc khâu đế, dán dế, … để có thể đi được lâu bền hơn. Bố mẹ mình mang rất nhiều tình cảm cho mình vào từng mũi khâu, bất kể là ngày mình đi học cần sửa giày dép ngay tức thì để còn đến trường ngày hôm sau, hay là khi mình chuẩn bị bay đi du học với chiếc cặp sách cần khâu chèn đường chỉ có sẵn để tăng sức bền khi sử dụng. Mình luôn thấy được sự hy sinh của bố mẹ khi làm theo nghề giày với mong muốn cả gia đình có một nhập ổn định và hai anh em mình có cuộc sống tốt hơn. Những điều mình nhận ra về sự hy sinh và cố gắng của bố mẹ đến từ ngày mình còn bé lắm rồi. Hồi mẫu giáo mình rất hay được các cô ở trường cho đi diễn văn nghệ với các bạn, đồng nghĩa với việc vào ngày biểu diễn thì mẹ mình sẽ trang điểm cho mình một chút để lên sân khấu. Có một lần mẹ đánh phấn má bằng tay trần, mình đã kêu lên rằng tay mẹ ráp nên làm má con hơi đau. Mẹ bảo do mẹ làm việc nên tay mới như thế, và từ các lần sau mẹ dùng bông đánh phấn để trang điểm cho mình đi biểu diễn. Một thời gian sau mình mới nhận ra rằng hoá ra không chỉ đơn giản là sự thô ráp, mà tay của cả bố và mẹ mình đều đã gần như không thấy nổi vân tay do sử dụng hoá chất, keo dán hàng ngày để sửa chữa giày cho khách. (Vì thế mà bây giờ ai gặp bố mẹ mình ở cửa hàng cũng sẽ thấy cả hai đeo găng tay để hạn chế sự tiếp xúc với các hoá chất đấy).

Một điều thú vị về cửa hàng giày của gia đình mình đấy là suốt 20 năm, cửa hàng chỉ đóng cửa nghỉ vào đúng ba ngày đầu tiên của Tết Nguyên Đán. Năm nào cũng cứ vào mùng 4 Tết, mình ngủ dậy với không khí Tết tràn ngập xung quanh, đi xuống dưới nhà đã thấy mẹ dậy từ lâu và mở cửa hàng rồi. Trong năm thì bất kể có ngày bận rộn với công việc không-thể-bỏ khác đến thế nào, chưa có ngày nào mà gia đình mình không cố gắng mở được vài ba tiếng. Việc mình cố gắng đi tìm cái mình yêu thích để học tập và làm việc cũng một phần từ sự ủng hộ của gia đình khi cho mình sự tự do quyết định cuộc sống của mình, một phần cũng là từ việc thấy bố mẹ mình có được sự yêu thích với nghề làm giày mà bố mẹ chọn. Công việc nào cũng có khó khăn, thách thức của riêng nó, nên nếu mà mình có được sự yêu thích trong đó thì cái vất vả sẽ phần nào bớt đi nhỉ?

Sửa một đôi giày không chỉ đơn thuần là để kiểm tiền. Bố mẹ mình đã nói “cố làm để trả giày cho khách” qua rất nhiều năm, vừa là để giữ uy tín cho cửa hàng, vừa là vì bố mẹ mình biết công việc sửa chữa ấy lại có thể quan trọng đến thế nào với họ. Có những gia đình mà mỗi người chỉ có một đôi giày tốt nhất dành để đi học, đi làm. Khi họ mang giày đến cho nhà mình sửa tức là họ không có gì để đi đến nơi làm và trường học nữa. Vậy nên dù có những ngày mình muốn bố mẹ đóng cửa hàng để có đủ thời gian nghỉ ngơi, nghe mẹ nói rằng: “Sửa giày cho con chú này vì con chú ý chỉ có mỗi một đôi giày để đi học ngày mai thôi” là mình lại ngoan ngoãn: “Vâng ạ. Mẹ cố làm xong sớm rồi còn đi ngủ nhé.” Khi mình làm việc vì giá trị tốt đẹp mà mình có thể mang lại cho người khác thì công việc dường như cũng trở nên ý nghĩa hơn.

Sau tất cả, điều mình luôn ghi nhớ đó là ngành nghề nào cũng đáng trân trọng khi nó xuất phát từ lao động chân chính, dù là có nhỏ bé, giản đơn, như chính công việc sửa chữa và bán giày dép của gia đình mình. Đến cuối ngày thì gia đình vẫn luôn là một trong những động lực lớn nhất để mình cố gắng hơn trong cuộc sống. Mình mong rằng dù bạn ở đâu, có ở cạnh gia đình và người thân hay ở cách xa ngàn cây số, thì cũng có cho bản thân một chỗ dựa tinh thần thật vững chắc qua những khó khăn thử thách bạn trải qua.


Ảnh bìa bởi rupixen.com trên Unsplash.

Bạn có thể đăng kí nhận nội dung và bài viết mới của blog qua email tại đây.